.

1 thg 12, 2009

Thuật ngữ tài chính

0 đánh giá
Các thuật ngữ dưới đây sưu tầm từ các bài viết trên mạng, đặc biệt từ các thành viên như Trùmbuônthuốclá, Oliver_HN... trong Hội nhà chứng WebTreThơ.


Bản cáo bạch (Prospectus): Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi của người mua chứng khoán... để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Tài liệu phục vụ cho mục đích đó gọi là Bản cáo bạch hay Bản công bố thông tin.


Bán cổ phần khơi mào (Equity carve out): Hoạt động bán cổ phần khơi mào, còn gọi là chia tách một phần, xảy ra khi công ty mẹ tiến hành bán ra công chúng lần đầu một lượng nhỏ (dưới 20%) cổ phần của công ty con mà nó nắm hoàn toàn quyền sở hữu.

Bán khống (Short Sales) Trong tài chính, Short sales hay Short selling hoặc Shorting là một nghiệp vụ trên thị trường tài chính được thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận thông qua giá chứng khoán giảm.

Bán tháo (Bailing out) Bailing out- bán tháo- chỉ việc bán nhanh bán gấp một chứng khoán hay một loại hàng hóa nào đó bất chấp giá cả, có thể bán với mức giá thấp hơn rất nhiều so với khi mua vào, như một biện pháp cứu vãn thua lỗ hơn nữa khi chứng khoán hay mặt hàng này đang theo chiều rớt giá trên thị trường. Với thị trường chứng khoán, mọi thông tin đều là tài nguyên quí giá, thì chỉ cần một tín hiệu "không lành" đã có thể gây lên hiện tượng bán tháo.

Báo cáo tài chính (Financial statement) Báo cáo tài chính là các bản ghi chính thức về tình hình các hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp.

Bảo lãnh (Underwrite ) Bảo lãnh là thuật ngữ tài chính chỉ việc một người hoặc một tổ chức chấp nhận rủi ro mua một loại hàng hóa giấy tờ nào đó để đổi lấy cơ hội nhận được món lời khác.

Bẫy giảm giá (Bear trap) Bẫy giảm giá được hình thành dưới dạng một tín hiệu giả cho thấy dường như chứng khoán đang có dấu hiệu đảo chiều, bắt đầu giảm giá sau một đợt tăng liên tiếp.

Bẫy tăng giá (Bull trap) Bẫy tăng giá được hình thành dưới dạng một tín hiệu giả cho thấy dường như chứng khoán đang có dấu hiệu đảo chiều, bắt đầu tăng giá sau một đợt sụt giảm liên tiếp.

Biên an toàn (Margin of safety) Là một nguyên lý đầu tư trong đó nhà đầu tư chỉ mua chứng khoán khi giá thị trường thấp hơn nhiều so với giá trị nội tại của chứng khoán đó. Nói cách khác, khi mức giá thị trường thấp hơn nhiều so với mức giá nội tại mà nhà đầu tư xác định thì khoảng chênh lệch giữa hai giá trị này được gọi là biên an toàn.

Bù trừ chứng khoán và tiền(Clearing) Bù trừ chứng khoán và tiền là khâu hỗ trợ sau giao dịch chứng khoán.

Các khoản đầu tư ngắn hạn (Short Term Investments) Các khoản đầu tư ngắn hạn là một tài khoản thuộc phần tài sản ngắn hạn nằm trên bảng cân đối kế toán của một công ty.

Cầm cố chứng khoán ( Mortgage stock) Cầm cố chứng khoán là một nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán trên cơ sở hợp đồng pháp lý của hai chủ thể tham gia, trong đó quy định rõ giá trị chứng khoán cầm cố, số tiền vay, lãi suất và thời hạn trả nợ, phương thức xử lý chứng khoán cầm cố.

Chênh giá mở cửa thị trường (Opening gap) Trong giao dịch cổ phiếu chênh giá mở cửa thị trường là hiện tượng giá mở cửa chênh lệch rất lớn so với giá đóng cửa ngày hôm trước, thông thường là do những thông tin đặc biệt tốt hoặc đặc biệt xấu trong thời gian thị trường đóng cửa.
Chênh lệch giá đặt mua/bán (Bid/Ask spread) Chênh lệch giá đặt mua/đặt bán là mức chênh lệch giữa giá mua và giá bán của cùng một giao dịch (cổ phiếu, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn, tiền tệ).

Chỉ số A-D (Advance - Decline Index ) Chỉ số A-D là chỉ số xác định xu hướng thị trường.
Chứng khoán (Security) Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua bán trên thị trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là hàng hóa trên thị trường đó.

Chứng khoán phái sinh (Derivatives ) Chứng khoán phái sinh (derivatives) là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu, nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.

Cổ phần (Share) Cổ phần là khái niệm chỉ các chứng nhận hợp lệ về quyền sở hữu một phần đơn vị nhỏ nhất của doanh nghiệp nào đó.

Cổ phiếu lưu hành trên thị trường (Outstanding shares) Cổ phiếu lưu hành trên thị trường là số cổ phần hiện đang được các nhà đầu tư nắm giữ, bao gồm cả các cổ phiếu giới hạn được sở hữu bởi nhân viên của công ty hay cá nhân khác trong nội bộ công ty.

Cổ phiếu phổ thông (Common stock) Cổ phiếu thường hay còn gọi là cổ phiếu phổ thông là loại chứng khoán đại diện cho phần sở hữu của cổ đông trong một công ty hay tập đoàn, cho phép cổ đông có quyền bỏ phiếu và được chia lợi nhận từ kết quả hoạt động kinh doanh thông qua cổ tức và/hoặc phần giá trị tài sản tăng thêm của công ty theo giá thị trường.

Cổ phiếu quỹ (Treasury stock) Cổ phiếu quỹ là cổ phiếu do công ty phát hành mua ngược lại từ thị trường chứng khoán.

Cổ phiếu sơ cấp(Primary Stock ) Cổ phiếu sơ cấp là loại cổ phiếu được phát hành lúc thành lập doanh nghiệp hoặc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước.

Cổ phiếu thưởng (Bonus stock) Có hai trường hợp thưởng cổ phiếu: thưởng cho người có đóng góp lớn và thưởng cho tất cả các cổ đông.

Cổ phiếu ưu đãi (Preferred stock) Cổ phiếu ưu đãi cho phép cổ đông nắm giữ nó được trả cổ tức trước cổ đông nắm giữ cổ phiếu phổ thông.

Cổ tức (Dividend ) Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần

Giá trị ghi sổ (Book Value) Giá trị ghi sổ cho biết giá trị tài sản công ty còn lại thực sự là bao nhiêu nếu ngay lập tức công ty rút lui khỏi kinh doanh.

Giá trị vốn hoá thị trường (Market capitalization) Giá trị vốn hoá thị trường là thước đo quy mô của một doanh nghiệp, là tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp, được xác định bằng số tiền bỏ ra để mua lại toàn bộ doanh nghiệp này trong điều kiện hiện tại.

Hệ số Alpha (Alpha indicator) Alpha là một thước đo tỷ suất sinh lợi dựa trên rủi ro đã được điều chỉnh.

Hệ số Beta (Beta indicator) Beta hay còn gọi là hệ số beta, đây là hệ số đo lường mức độ biến động hay còn gọi là thước đo rủi ro hệ thống của một chứng khoán hay một danh mục đầu tư trong tương quan với toàn bộ thị trường.

Hệ số giá thị trường trên giá ghi sổ (Price to Book ratio) Hệ số giá thị trường trên giá ghi sổ là hệ số được sử dụng để so sánh giá trị trường của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó.

Hệ số nguy cơ phá sản (Z-Score) Hệ số nguy cơ phá sản giúp các nhà đầu tư đánh giá rủi ro tốt hơn, thậm chí có thể dự đoán được nguy cơ phá sản của doanh nghiệp trong tương lai gần.

Hệ số thu nhập trên tài sản ( Return on Assets) Đây là một chỉ số thể hiện tương quan giữa mức sinh lợi của một công ty so với tài sản của nó. ROA sẽ cho ta biết hiệu quả của công ty trong việc sử dụng tài sản để kiếm lời.

Mô hình xác định giá trị của tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model) Ý tưởng chung đằng sau mô hình định giá tài sản vốn là các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư vốn của mình vào bất cứ tài sản gì thì cũng được bù đắp lại theo hai cách: giá trị tiền tệ theo thời gian và rủi ro.

Thị trường theo chiều giá lên (Bull market) Bull market là thị trường theo chiều giá lên, là dạng thị trường tài chính mà giá các loại chứng khoán (chủ yếu là cổ phiếu) tăng nhanh hơn mức bình quân trong lịch sử của chúng, trong một thời gian dài (vài tháng) với lượng mua bán lớn .

Thị trường theo chiều giá xuống (Bear Market) Thị trường theo chiều hướng xuống Giá rớt trong một thời khoảng kéo dài.

Tính thanh khoản (Liquidity) Tính thanh khoản được hiểu là việc chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu... có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu.

Trái khoán (Debenture) Trái khoán là một công cụ nợ không được bảo đảm bằng các tài sản hữu hình hoặc kí quỹ nào mà nó chỉ được đảm bảo bằng mức độ tin cậy về khả năng trả nợ hay là uy tín của chính công ty phát hành trái khoán.

Trái phiếu (Bond) Trái phiếu là một chứng nhận chịu lãi do chính phủ hay một doanh nghiệp phát hành cam kết trả cho người sử hữu trái phiếu một số tiền nhất định vào một thời gian nhất định.

Trái phiếu chuyển đổi (Convertible Bond) Theo như tên gọi của nó, trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu mà người nắm giữ có khả năng chuyển đổi chúng thành một lượng cổ phiếu nhất định của công ty phát hành. Khi được phát hành lần đầu, các trái phiếu này đóng vai trò như một loại trái phiếu doanh nghiệp thông thường, có mức lãi suất thấp hơn một chút.

Tỷ lệ cổ tức trên thị giá cổ phần (Dividend Yield) Chỉ số Tỷ lệ cổ tức trên thị giá cổ phần (Dividend Yield) là một công cụ hữu hiệu giúp nhà đầu tư quyết định nên chọn đầu tư vào doanh nghiệp nào. Chỉ số này phản ánh mối quan hệ giữa cổ tức nhà đầu tư nhận được với thị giá của cổ phiếu mà nhà đầu tư mua vào.

Bull và bear:
Ai cũng biết bull là con bò đực, bear là con gấu và stag là con hươu đực. Vậy tại sao thị trường chứng khoán lại sử dụng tên các con vật để làm thuật ngữ cho mình? Gấu là loài vật rất thận trọng và di chuyển chậm chạp, bò thì lại thường có cá tính, rất “ngầu” và di chuyển nhanh. Do vậy mà một nhà đầu tư được gọi là “bearsish” nếu như người đó tin rằng chỉ số chứng khoán sẽ giảm và mua vào một cách thận trọng. Ngược lại thì “bullish” sẽ tin rằng thị trường tăng trong thời gian tới và mua vào liên tục. “Bull” và “Bear” cũng được dùng để chỉ cả thị trường chứng khoán nói chung. “Stag” được sử dụng cho một người không theo một chính sách nhất quán mà lúc thì là “bullish”, lúc lại là “bearish

Chim lợn và bìm bịp:
Vấn đề mấu chốt ở đây là khi nào thú sẽ thịt cừu và bạn sẽ là cừu hay là thú! Ranh giới giữa thú và cừu thật mong manh. Nếu nhanh chân hơn, bạn là thú, nếu chậm chân hơn, bạn là cừu (mặc dù trước đó bạn vừa là thú).

Ngoài khái niệm "cừu" và "thú" (hoặc sói), nếu tham gia một số diễn đàn về CK các bạn chắc cũng biết khái niệm về "chim lợn" và "chim bìm bịp". Chim lợn luôn hô hào cho thị trường đi xuống bằng cách đưa ra các cảnh báo, các tin xấu, các phân tích có chủ ý nhằm tạo tâm lý hoang mang cho các nhà đầu tư. Chim bìm bịp thì ngược lại, luôn đưa tin tốt, thổi phồng quá mức các chỉ báo luôn kêu gào nhà đầu tư mua vào bằng cách đánh vào lòng tham. Ai là chim lợn và ai là chim bìm bịp chắc các bạn cũng biết, trong mỗi nhà đầu tư đều có hai con này, lúc xả hàng xong hoặc khi còn cầm nhiều tiền họ là chim lợn, khi gom xong hàng họ là bìm bịp. Khi bạn gặp một trong hai loài này, hãy cẩn trọng với những phân tích của họ.

Các thuật ngữ dân dã trong thị trường chứng khoán Việt Nam:

Tiền đạo: cổ phiếu tấn công

Hậu vệ: cổ phiếu phòng thủ

Đá cánh trái: dư mua giá trần lớn và ko có dư bán

Đá cánh phải: dư bán giá sàn lớn và ko có dư mua

Ba bị: BBs, Big boys

Mẹ mìn: MMs, Market maker

Sọc: bán khống

Đập sàn: bán số lượng lớn cp giá sàn

Rải đinh: đặt mua hoặc bán ở nhiêù mức giá khác nhau

Táo bón: khối luợng cổ phiếu giao dịch rất ít do không ai muốn bán

Đè giá: bán với số lượng lớn ở mức giá thấp để ngăn ko cho giá cp tăng lên

Che lệnh: đối với bên bán thì đặt mua vài lô ở giá thấp để cho không cho bên mua thấy khối lượng bán ở giá cao, còn với bên mua thì đặt mua vài lô ở giá cao không cho bên bán thấy số lượng mua ở giá thấp

Penny stock là loại chứng khoán có mệnh giá nhỏ, thường do các công ty nhỏ tung ra thị trường. Bên cạnh thuật ngữ penny stock, đôi khi người ta còn sử dụng một số tên gọi khác mang nghĩa tương đương như microcap stock, small cap hay nano cap. Ở TTCK Mỹ, thuật ngữ penny stock được hiểu là những loại chứng khoán có trị giá thấp hơn 5 USD/cổ phiếu, được mua bán bên ngoài những thị trường lớn như NYSE, NASDAQ hay AMEX và thường được xem là kém hấp dẫn. Còn ở TTCK Anh, penny stock là cổ phiếu của công ty có vốn hóa thị trường nhỏ hơn 100 triệu bảng hoặc có thị giá nhỏ hơn 1 bảng. UBCK Anh cảnh báo, penny stock thường được giao dịch với mức thanh khoản thấp, nghĩa là những người nắm trong tay cổ phiếu này sẽ gặp khó khăn khi bán do không tìm được người mua có nhu cầu tương ứng và vì vậy rất khó định giá. Các nhà đầu tư khi đầu tư vào penny stock cần lường trước khả năng sẽ mất toàn bộ số tiền đầu tư khi không thể bán được cổ phiếu này trên thị trường.

Penny stock được đánh giá là loại chứng khoán chứa đựng độ rủi ro rất cao, đặc biệt là khi được mua bán với số lượng nhỏ mà không trên giấy tờ chính thức. Bởi vì penny stock không được buôn bán thường xuyên trên những sàn giao dịch, nên rất khó khăn cho những ai đang sở hữu chúng khi muốn bán đi. Hơn nữa, không có danh sách báo giá cho một loại cổ phiếu penny stock bất kỳ, nên không có cơ sở để định giá chúng một cách chính xác khi giao dịch. Chính vì vậy, các nhà đầu tư luôn phải chuẩn bị trước tình thế thua lỗ khi buôn bán loại cổ phiếu này. Thanh khoản kém và biên độ dao động lớn của giá làm cho cổ phiếu penny stock là loại cổ phiếu dễ bị tổn thương nhất đối với các nhà đầu tư.

Blue-chip là loại cổ phiếu "chất lượng cao" hay còn gọi là cổ phiếu "thượng hạng", do các công ty lớn, có tiếng phát hành. Từ blue-chip bắt nguồn từ loại thẻ đổi tiền khi chơi bài poker tại các sòng bạc. Chips là loại thẻ nhựa đổi tiền khi đánh bạc. Giá trị quy đổi của chips sẽ phục thuộc vào màu sắc của chips (gồm xanh, đỏ, vàng, trắng). Theo thông lệ, chips màu xanh (blue) có giá trị quy đổi cao nhất. Khái niệm này sau đó đã được ứng dụng vào TTCK để phân loại các cổ phiếu. Loại cổ phiếu blue-chip thường được hiểu là có thu nhập ổn định, cổ tức thấp và độ rủi ro thấp. Theo một cách khác, cổ phiếu blue-chip còn được định nghĩa như là cổ phiếu của các công ty có giá trị vốn hóa thị trường lớn. Chẳng hạn, trên TTCK quốc tế, cổ phiếu của các công ty như Shell, Coca Cola, IBM, Microsoft… là các cổ phiếu blue-chip.


0 đánh giá:

Đăng nhận xét